Addresses: 5 hamlet, Tra Tan Village, Duc Linh District, Binh Thuan Province, South Central Coast Region of Vietnam.
Tel: 02523530092 Mobi:0937002677
Website: namduocduongchuaphaplac.blogspot.com
Chuyên trị bệnh: tiểu đường, đau nhứt khớp, vô sinh hiếm muộn, ung thư, ung bướu.v.v....
Mô tả: Cây thảo mọc leo hay không, sống hằng năm. Lá giống lá Sen, có cuống dài dính ở giữa phiến tròn, mép nguyên, mặt trên màu lục nhạt, mặt dưới mốc mốc. Hoa ở nách lá, màu vàng, vàng cam hay đỏ; 5 lá đài nhọn, lá đài sau mang một cựa hình nón, cong ở đầu; 5 cánh hoa bằng nhau; 8 nhị rời nhau; bầu 5 ô, mỗi ô chứa 1 noãn. Quả lớn cỡ 1cm, có 3 mảnh vỏ, có vách dày và xốp, chứa 3 hạt.
Hoa tháng 5-9.
Cây Sen Cạn - Tropaeolum Majus
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Tropaeoli Maji.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở châu Mỹ, từ Chi Lê đến Mêhicô. Ta nhập trồng làm cảnh; có thể trồng ở vườn, dọc hàng rào, trồng ở ban công. Có thể thu hái toàn cây quanh năm. Có thể lấy những nụ hoa đầu tiên, các hoa vừa nở và một số lá làm thuốc và giữ phần còn lại cho cây sinh trưởng, phát triển bình thường. Ðể lấy hạt, đợi đến khi quả thật chín, giữ một phần để gieo, còn phần nhiều thì dự trữ để dùng dần khi cây không có hoa và nụ hoa.
Thành phần hoá học: Trong lá Sen cạn tươi có 265mmg% vitamin C, có các tế bào chứa myrosin và một glucoíid chứa sulfur gọi là glucotropaeolosid, đồng đẳng dưới của gluconas-turtosid có trong Cải soong, khi thuỷ phân cho tinh dầu isothioxyanat benzyl. Còn có chất tromalit có tác dụng kháng khuẩn gram dương và gram âm, nhưng lại giữ nguyên vẹn hệ vi khuẩn đường ruột. Chất kháng khuẩn tập trung nhiều ở hạt; đó là một chất có mùi thơm đặc biệt màu hơi vàng, đông đặc ở 4oC, tan trong nhiều dung môi hữu cơ, nhất là ether ethylic.
Tính vị, tác dụng: Sen cạn có vị cay, chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, mát huyết, cầm máu, lại có tác dụng điều kinh, lợi tiểu, nhuận tràng, tẩy, trừ ho và chống bệnh scorbut.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hạt Sen cạn được sử dụng làm thuốc từ lâu đời ở Pêru để chữa viêm bàng quang và viêm phế quản. Kể từ năm 1805, người ta đã sử dụng Sen cạn để chữa bệnh scorbut (hoại huyết), chữa các rối loạn của phế quản và phổi (ho, viêm phế quản mạn tính) do nó có tác dụng giống những loài cây có chứa tinh dầu có lưu huỳnh như Tỏi. Cây còn dùng chữa sự lười biếng của thận và các bệnh về bàng quang (viêm bàng quang, viêm bể thận), chữa tạng bạch huyết, khí thũng, tăng tiết bã nhờn và chữa vết thương nhiễm khuẩn.
Sen cạn còn được sử dụng cho người già, cho bệnh già trước tuổi và cho những người dưỡng bệnh vì nó giúp tái tạo lại sức khoẻ (do có nhiều acid phosphoric, tinh dầu có S và vitamin C). Hơn nữa, nó hơi nhuận tràng và giúp cho sự luyện viên thức ăn ở trong ruột. Nó cũng dùng chữa kinh nguyệt không đều và chống rụng tóc.
ỞTrung Quốc, người ta dùng toàn cây chữa mắt đỏ sưng đau, thổ huyết, khạc ra máu, ghẻ lở.
Cách dùng: Có thể sử dụng Sen cạn dưới nhiều hình thức:
Dùng một nắm nụ hoa hay hạt cho vào trong 1 lít nước; có thể thêm chất thơm cho át vị của thuốc. Uống liền sau bữa ăn, ngày 2-3 lần. Có thể sắc 15-30g lá trong 1 lít nước. Nước sắc lá, hoa, quả dùng súc miệng làm răng bền chắc.
2. Thuốc xức (chống bệnh rụng tóc và kích thích sức sống của da đầu): Dùng 100g hoa, lá tươi và hạt Sen cạn cho vào 1 lít nước, đun sôi 15 phút. Có thể thêm ít giọt tinh dầu thơm tuỳ theo sở thích. Dùng xoa vào tóc và chà mạnh vào da đầu sáng chiều, hoặc nhiều lần trong ngày.
3. Cồn thuốc tươi: Ngâm lá tươi với rượu trắng trong 15 ngày, rồi lọc, đóng chai. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Có thể dùng liên tục, dù là khi không có mùa của cây.
4. Nghiền quả khô hay tươi (nhuận tràng): Dùng quả chín phơi khô hay hạt với liều 0,6g, nghiền với đường hoặc trộn với mật trước khi đi ngủ, hoặc dùng 1-3 thìa cà phê quả tươi nghiền với một lượng đường gấp 3 lần.
La Grande Capucine ou Capucine(Tropaeolum majus) est une plante herbacée annuelle ou vivace de la famille des Tropaéolacées et du genre Tropaeolum. Cette plante ornementale et comestible est probablement un hybride originaire d'Amérique du Sud. Elle a été introduite en France en provenance du Pérou à la fin du xviie siècle. Dans son pays d'origine, le Pérou, la capucine est pollinisée par les oiseaux-mouches. En Europe, les bourdons s'acquittent de cette tâche. Mais la fleur secrète son nectar tout au bout d'un interminable éperon. Certains bourdons, dont la langue est trop courte, n'hésitent pas à percer un trou sur le côté pour accéder au nectar (vol de nectar).
La grande capucine a été introduite par des conquistadors hollandais vers 1680 en Europe où elle a fait son apparition dans les jardins de monastères et était tenue en haute estime en tant que plante aromatique et médicinale.
L’éperon de la fleur de capucine rappelle le capuchon de l’habit de moine, ce qui peut donner à penser que son nom serait dérivé de celui des moines capucins. Selon d’autres sources, elle devrait son nom à ses feuilles en forme de bouclier (peltate), car Tropaeolum se retrouve dans le mot latin tropaeumqui signifie « trophée » et était primitivement «un tronc d’arbre auquel on suspendait des boucliers et armes appartenant au vaincu en signe de victoire».
Afin de limiter les dégâts commis par les pucerons, nombre de personnes pratiquant le jardinage biologique plantent des capucines, au pied de leurs arbres fruitiers par exemple. Les capucines ont effectivement pour particularité d'attirer les pucerons. Rapidement, les capucines se couvrent de ces insectes piqueurs et suceurs, tandis que les plantes avoisinantes restent intactes (si toutefois il s'agit bien de la même espèce de pucerons). Il suffit alors de sacrifier les capucines en les brûlant. Alternativement, il est possible de laisser les pucerons sur les capucines, si ces dernières sont assez nombreuses, afin de laisser un garde-manger aux auxiliaires (par exemple, les coccinelles), et attendre l'équilibre biologique naturel.
Elles sont souvent plantées à proximité d'autres plantes pour les protéger contre le moucheron blanc.
Ses qualités décoratives liées à une croissance rapide en font une plante grimpante très appréciée pour monter le long des palissades, pergolas et autres treillages de jardin aménagés ainsi en brise-vue.
La capucine est une fleur qui pousse assez rapidement, selon le climat dans lequel elle est plantée.
En gastronomie, les feuilles et les fleurs de la grande capucine sont ajoutées crues aux salades, sauces et mayonnaise. Elles ont une saveur piquante et aromatique qui n'est pas sans rappeler celle du cresson alénois. Les boutons floraux et les jeunes fruits sont parfois conservés dans du vinaigre et ont eux aussi un goût piquant. De cette manière, il est possible de faire un semblant de câpres.
« Il y a aussi des capres capucines ou nasturées, qui sont des boutons à fleur d'une plante annuelle assez connuë :On les prend avant qu'ils s'épanouissent, et on les confit de même. La manière de le faire (...) est de les mettre dans un pot avec quelques poignées de sel raisonnablement : vous y ajoûterez du poivre concassé, et quelques clous de girofle si vous voulez ; et vous verserez par dessus du vinaigre et de l'eau, c'est-à-dire, sur deux pintes de vinaigre, une d'eau ; il faut que vos capres baignent, et de cette façon elles seront fort agréables, tant en potage qu'en salade pendant l'hiver. »
— François Massiallot, Nouvelle Instruction pour les Confitures, les liqueurs, et les fruits, 1692, pp. 419-420
« On fait avec les boutons de capucine, une confiture au vinaigre fort agréable, qui sert pour les salades d'hiver ; on employe les fleurs de la grande capucine pour garnir les salades ; elles réjouissent tout-à-la-fois le goût et la vue. »
— Dictionnaire des plantes alimentaires (...). Tome premier, 1803, p. 190.
Il existe de nombreuses variétés qui se différencient par la couleur de la corolle qui va du pourpre le plus foncé au jaune le plus clair, avec ou sans taches diverses et variées.
La plante contient un glucosinolate (la glucotropaeoline) et une enzyme, la myrosinase, qui hydrolyse la première en thiocyanates, isothiocyanates et nitriles, molécules présentant une activité toxique contre les insectes herbivores, pathogènes et autres microorganismes. Les isothiocyanates sont en plus anticancéreux. (Wielanek M. et Urbanek H., 2009).
Dictionnaire des plantes alimentaires qui peuvent servir de nourriture, de boisson aux différens peuples de la terre... ou les arts du boulanger, du pâtissier, du vermicelier, du confiseur, du distillateur-liqueriste, du cuisinier, réunis dans cet ouvrage, utile aux cultivateurs et aux personnes qui habitent la campagne. Tome premie. Paris : Samson. 1803 téléchargeable en ligne.
François Massiallot, 1692. Nouvelle Instruction pour les Confitures, les liqueurs, et les fruits. Charles de Sercy, consultable en ligne.
Marzena Wielanek & Henryk Urbanek, 1999. Glucotropaeolin and myrosinase production in hairy root cultures of Tropaeolum majus. Plant Cell, Tissue and Organ Culture 57: 39–45 téléchargeable en ligne.
No comments:
Post a Comment